Giải thích về phong cách của Tế Công Tế_Công

Thiền sư Đạo Tế từng nói bài kệ về phong cách tu hành của mình như sau:

Cổ thi Phật Tổ để một phong,

Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng,

Người nay tu miệng, lòng không sửa.

Bần tăng lòng sửa, miệng thì không.

Luận: Vào đương thời, trong xã hội Trung Quốc có nhiều biến cố chính trị, người dân mê muội. Trong giới Phật giáo cũng xuất hiện một số tình trạng tệ nạn, sa sút trong nội bộ tăng sĩ. Tế Công là bậc thiền sư đã khai ngộ, thấu suốt tự tính, không còn bị sinh tử luân hồi ràng buộc. Các Thiền sư trong Thiền tông thường dùng những cơ xảo, lời nói trái với thường tình như đánh, hét, dựng Phật tử,.. để giúp người họ thoát khỏi tâm chấp trước, liền được ngộ đạo. Tế Công vì thấy người đời chấp trước vào hình tướng bên ngoài, tham lam, ích kỷ, ham mê danh lợi, tài sắc, mà quên mất bản tâm Phật tính, tâm thiện ngay nơi mình, không chịu chú trọng thực tâm tu hành, cầu đạo giải thoát nên ngài từ bi thị hiện điên điên, khùng khùng, mặc đồ rách rưới để phá bỏ tâm chấp thật của chúng sinh, giúp dân chúng hướng thiện, kết thiện duyên với Phật pháp. Hành tung của các Thiền sư thường ảo diệu, đến đi không để lại dấu vết, chỉ chú trọng dùng phương tiện giúp người. Tế Công cũng vậy, hành động của sư nếu không phải là người học đạo, tu hành thì khó mà lường được. Tuy hình tướng bên ngoài của sư khác thường nhưng tâm Bồ Tát rộng lượng cứu độ chúng sinh, giúp người, giúp vật thoát khỏi bệnh tật, nguy nan, bỏ tà theo chánh đã cảm hóa được nhiều người đương thời, đến nay hình tượng Tế Công vẫn là một dòng cảm hứng lớn đối với nhân sinh.

Phật giáo Trung Quốc ít nhiều ảnh hưởng từ các nghi lễ Nho giáo, trọng văn chương, nghi lễ, ngôn ngữ thâm sâu, điêu luyện nên các tầng lớp dân cư thấp, ít học trong xã hội khó tiếp cận được Phật pháp. Sự xuất hiện của những câu chuyện về cuộc đời giáo hóa của Tế Công và sự lan truyền rộng rãi trong quần chúng đã giúp cho những người bình thường, ít chữ, văn hóa thấp dễ dàng hiểu được các giáo lý Phật pháp cơ bản.

Khi có người hỏi về nguyên cớ tại sao Tế Công điên điên, khùng khùng, truyền thuyết kể lại rằng Ngài cười lớn và nói: "Ha ha! Người đời thường cười ta điên điên khùng khùng, thật ra Đạo Tế ta tuy điên mà chẳng khùng, nay giải thích cái lí ấy như sau: cái gọi là “điên khùng” là tinh thần thất thường, lời nói hành động chẳng có chút trật tự, giống kẻ ngốc nghếch ngờ nghệch vậy. Ta tuy là vẻ bề ngoài trông điên khùng, nhưng trong tâm ta một dải chơn không, tất cả lời nói hành động đều xuất phát từ tự nhiên, vả lại lời nói có thể khuyên người đời hướng thiện, hành động thì là độ chúng sanh quay đầu về bờ, hoàn toàn khác với người đã nói đến ở trước. Ta du khắp nơi, không bị ràng buộc".

Luận: Có câu rằng “Đại trí nhược ngu” (người có trí tuệ cực cao ẩn mình thường làm ra vẻ bề ngoài trông giống như rất bình phàm và ngu mê).

Còn về vấn đề ăn thịt, uống rượu thì thời Phật Thích Ca còn tại thế, Phật không chủ trương đệ tử muốn học Phật chưa xuất gia thọ trì ngũ giới, giữ chay giới nơi cửa chùa nhất định phải ăn chay mà chỉ tùy duyên khi đi khất thực thí chủ cho đồ gì thì ăn đồ đó, các tăng sĩ được ăn thịt với điều kiện thịt đó phải là tam tịnh nhục, tức là thịt mà mình không thấy người ta giết hại, nghe thấy người ta giết hại hay nghi ngờ người ta giết vì mình, thân tâm phải đủ thanh tịnh và xứng đáng là 1 vị khất sĩ, nên trong truyền thống Phật giáo Nam Truyền từ xưa cho đến nay các tăng ni vẫn ăn thịt bình thường khi khất thực với điều kiện tam tịnh nhục như trên. Về cuối đời, Đức Phật ngăn cấm việc các đệ tử ăn thịt, như trong kinh Lăng Nghiêm nói:

"Người tu chánh định, cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm sát hại chẳng trừ, thì chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà chẳng dứt sát hại, ắt phải lạc vào đạo quỷ thần. Hạng trên thành tựu đại lực quỷ, hạng giữa thành phi hành dạ xoa và các loại quỷ soái, hạng dưới thành địa hành la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều xưng đã thành đạo Vô thượng, sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, loại quỷ thần này sôi nổi trên thế gian, tự nói ăn thịt cũng được đạo Bồ đề..." " Các ngươi nên biết, những người ăn thịt, dù được khai ngộ tựa như Tam ma địa, nhưng đều là giống La sát, khi hết phước báu, ắt phải chìm đắm trong biển khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như thế, giết nhau nuốt nhau, ăn nhau không thôi, làm sao ra được khỏi luân hồi."

Trước khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, ngài cũng dạy cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp: "Này Ca Diếp! Bắt đầu từ ngày nay trở đi, Như Lai không cho phép hàng Thanh văn đệ tử ăn thịt, nếu đàn việt đem đến dâng thí, phải xem thịt ấy như thịt con mình. Như Lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt". Như vậy, mục đích của việc ăn chay là để diệt trừ tâm sát sinh, hại mạng, tăng trưởng lòng từ bi, kết thiện duyên với muôn loài. Đặc biệt trong truyền thống Phật giáo Đại thừa việc ăn chay trong giới tăng sĩ rất được coi trọng và tuân thủ nghiêm ngặt. Ngoại trừ một số quốc gia Phật giáo như Tây Tạng do bị hạn chế về môi trường, đất đai khô cằn, hoang mạc khó phát triển trồng trọt, rau củ rất ít nên các tăng sĩ buộc phải ăn mặn. Sau này, khi phật giáo Tây Tạng lưu vong sang Ấn Độ hay truyền bá sang Phương Tây, những hạn chế về mặt địa lý đã được cải thiện, các vị lãnh đạo tăng đoàn và giới tăng ni đã bắt đầu thực hiện và phổ biến việc ăn chay.

Hành động ăn thịt, uống rượu đó của Tế Công đó là do sư đã được cảnh giới tự tại, chứng được quả vị bậc thánh, không còn bị sinh tử luân hồi, nghiệp thiện ác chi phối nữa nên tùy duyên, tùy phương tiện để giáo hóa khai mê cho chúng sinh. Người bình thường nếu tu hành vẫn cần phải ăn chay, giữ giới để tăng trưởng từ bi, trí huệ, thiền định. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc cũng có những câu chuyện như thế. Ví dụ, có một vị Thiền sư dạy đệ tử rất nghiêm khắc, bắt buộc các đệ tử phải nghiêm trì giới luật. Nhưng bản thân sư lại không tuân thủ giới luật, thường la cà nơi quán rượu, thịt với các tín đồ. Đệ tử thấy vậy nên không phục. Thiền sư bèn mời các đệ tử ngày mai cùng ông ra ngoài ăn uống. Đến sáng, ông bảo các đệ tử lấy cuốc mang đến mộ để đào xác chết và bảo các đệ tử ăn. Ai nhìn thấy cũng nôn mửa, kinh hãi, vị Thiền sư vẫn ung dung và cầm từng cái một ăn ngon lành. Vị thiền sư mới cười và khai thị cho các đệ tử: "Nếu các ông đã thật sư chứng được cảnh giới giải thoát, vô phân biệt như tôi, các ông có thể học hỏi phong cách ăn mặn, uống rượu của tôi. Nhưng nếu các ông vẫn chưa đạt được như thế, hãy tuân thủ giới luật nghiêm túc".